Án lệ số 61/2023/AL về chấm dứt việc nuôi con nuôi khi con nuôi chưa thành niên được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua vào các ngày 01, 02, 03 tháng 02 năm 2023 và được công bố theo Quyết định 39/QĐ-CA ngày 24 tháng 02 năm 2023 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
1. KHÁI QUÁT NỘI DUNG CỦA ÁN LỆ:
– Tình huống án lệ:
Cha đẻ, mẹ đẻ và cha nuôi, mẹ nuôi thống nhất giao lại con nuôi chưa thành niên cho cha đẻ, mẹ đẻ tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng; con nuôi có nguyện vọng được về sống với cha đẻ, mẹ đẻ và cha nuôi, mẹ nuôi có yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
– Giải pháp pháp lý:
Trường hợp này, Tòa án phải chấp nhận yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.
2. NỘI DUNG ÁN LỆ
“[7] Năm 2015, ông Trần Công T và bà Nguyễn Thị Q nhận nuôi cháu Nguyễn Minh Khánh HI là con đẻ của anh Nguyễn Thanh H và chị Trần Thị Thảo TI làm con nuôi, các bên có làm hồ sơ nhận nuôi con nuôi và được ủy ban nhân dân xã A cấp giấy chứng nhận nuôi con nuôi số 01 ngày 15/9/2015 nên quan hệ nuôi con nuôi là hợp pháp và các bên đều thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.
[8] Nay cháu HI có nguyện vọng về ở với bố mẹ đẻ để có điều kiện chăm sóc và hỗ trợ các em ăn học, được bố mẹ nuôi là ông T, bà Q và bố mẹ đẻ là anh H, chị TI đồng ý, nên ông T, bà Q làm đơn đề nghị Tòa án chấm dứt việc nuôi con nuôi là tự nguyện và phù hợp với quy định tại Điều 78 của Luật Hôn nhân và gia đình và Điều 25 của Luật Nuôi con nuôi. Do đó cần chấp nhận yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi của ông Trần Công T, bà Nguyên Thị Q với cháu Trân Minh Khánh Hl.”
3. NGUỒN ÁN LỆ:
Quyết định sơ thẩm số 87/2019/QĐST-HNGĐ ngày 24/4/2019 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai về việc “Yêu cầu chấm việc nuôi con nuôi”, người yêu cầu là ông Trần Công T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Nguyễn Thanh H và chị Trần Thị Thảo T I.
Vị trí nội dung án lệ: Đoạn 7, 8 phần “Nhận định của Tòa án”.
4. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT LIÊN QUAN ĐẾN ÁN LỆ
– Các điều 25, 26 và 27 Luật Nuôi con nuôi năm 2010;
– Điều 78 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
5. TỪ KHÓA CỦA ÁN LỆ
“Chấm dứt việc nuôi con nuôi”; “Con nuôi chưa thành niên”; “Tự nguyện chấm dứt việc nuôi con nuôi”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, ông Nguyễn Văn H đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày:
Ngày 29 tháng 10 năm 2020, ông Thái Hữu T có mua tờ vé số ký hiệu AG-10K5 mang số F123007 trúng giải thưởng 2.000.000.000 đồng, do Công ty xổ số kiến thiết A phát hành, ngày mở thưởng là ngày 29 tháng 10 năm 2020. Do bận công việc nên vào ngày quay số, ông T không theo dõi và sau khi quay số cũng không dò số. Đến 22 giờ ngày 28 tháng 11 năm 2020, ông T mới dò số phát hiện mình trúng thưởng. Lúc này, ông T có dùng số điện thoại cá nhân gọi vào số điện thoại của Công ty xổ số kiến thiết A báo trúng thưởng, nhưng không có người trả lời.
Đến ngày 29 tháng 11 năm 2020, ông T mang vé số trúng thưởng đến Công ty nhưng do là ngày chủ nhật nên công ty không làm việc. Ông T có gặp bảo vệ công ty và chị Nguyễn Thị Kim T1 – Nhân viên phòng trả thưởng – kho quỹ để nhận thưởng nhưng không được, mà được hướng dẫn làm các thủ tục xin xác nhận lý do trễ hạn.
Ông T cũng đã làm các thủ tục: Đơn trình bày lý do trễ hạn nộp cùng toa thuốc của mẹ ông vì trong thời gian sau khi mua vé số ông phải đưa mẹ ông đi điều trị tại bệnh viện và đón mẹ ông về nhà ở huyện V, nhưng công ty lại xác định ngày cuối cùng của thời hạn lĩnh thưởng là ngày 27 tháng 11 năm 2020.
Việc công ty xác định ngày 27 tháng 11 năm 2020 là ngày cuối cùng của thời hạn lĩnh thưởng là không chính xác. Ngày cuối cùng phải là ngày 28 tháng 11 năm 2020, nhưng ngày này rơi vào thứ bảy, nên ngày cuối cùng trả thưởng phải là ngày 30 tháng 11 năm 2020 theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015. Do đó, nguyên đơn yêu cầu Tòa án buộc Công ty xổ số kiến thiết A phải trả thưởng đầy đủ giá trị giải đặc biệt 2.000.000.000 đồng mà nguyên đơn đã trúng thưởng.
Bị đơn do ông Võ Trung D đại diện trình bày:
Bị đơn không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Lý do, căn cứ vào Thể lệ tham gia dự thưởng vé xổ số của Công ty ban hành kèm theo Quyết định số 22/QĐ.XS ngày 04 tháng 3 năm 2020 đã được công khai, Thông tư số 75/2013/TT-BTC ngày 04 tháng 6 năm 2013 của Bộ Tài chính, các Nghị định hướng dẫn về hoạt động xổ số, khoản 1 Điều 145 Bộ luật Dân sự năm 2015 và mặt sau của tờ vé số trúng giải đã thể hiện kỳ quay mở thưởng là vào ngày 29 tháng 10 năm 2020. Ngày quay thưởng được tính là 01 ngày trong thời hạn 30 ngày lĩnh thưởng, nên ngày kết thúc thời hạn lĩnh thưởng là ngày 27 tháng 11 năm 2020. Ngày 29 tháng 11 năm 2020, ông T có mang tờ vé số đến nhưng do là ngày nghỉ theo quy định nên ngày 01 tháng 12 năm 2020 ông T mới chính thức gửi đơn và tờ vé số để lĩnh thưởng là đã quá thời hạn lĩnh thưởng.
Công ty xổ số kiến thiết A đã có Công văn trao đổi ý kiến với Bộ Tài chính và nhận được Công văn số 16055/BTC-TCNH ngày 30 tháng 12 năm 2020 của Bộ Tài chính xác định “…ngày xác định kết quả trúng thưởng là ngày quay số mở thưởng, được tính 01 ngày trong thời hạn lĩnh thưởng 30 ngày của vé xổ số trúng thưởng. Như vậy, đối với kỳ vé mở thưởng ngày 29 tháng 10 năm 2020, ngày kết thúc thời hạn lĩnh thưởng là ngày 27 tháng 11 năm 2020. Quá thời hạn trên, vé xổ số trúng thưởng loại hình xổ số truyền thống và xổ số lô tô thủ công không còn giá trị lĩnh thưởng”.
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 71/2021/DS-ST ngày 28/4/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, quyết định:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Thái Hữu T đối với Công ty xổ số kiến thiết A về việc trả thưởng xổ số kiến thiết với số tiền 2.000.000.000 đồng;
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 14/11/2019, ông Thái Hữu T có đơn kháng cáo toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm nêu trên.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 89/2021/DS-PT ngày 13/8/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang, quyết định:
Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn Thái Hữu T;
Sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 71/2021/DS-ST ngày 28 tháng 4 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên.
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Thái Hữu T đối với bị đơn Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên xổ số kiến thiết A.
Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên xổ số kiến thiết A có trách nhiệm trả thưởng cho ông Thái Hữu T đối với tờ vé số trúng thưởng có ký hiệu AG-10K5 mang số F123007 trúng giải đặc biệt 2.000.000.000 đồng do Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên xổ số kiến thiết A phát hành, ngày mở thưởng là ngày 29 tháng 10 năm 2020.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.
Ngày 09/9/2021, Công ty TNHH MTV xổ số kiến thiết A có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.
Ngày 23/9/2021, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang có Văn bản số 1180/TB-VKS-DS/BC kiến nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 35/2022/QĐ-VKS-DS ngày 21/01/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị bản án dân sự phúc thẩm nêu trên, đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử giám đốc thẩm hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 89/2021/DS-PT ngày 13/8/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 71/2021/DS-ST ngày 28/4/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Long Xuyên.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh, đề nghị Ủy ban Thẩm phán chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
– Tại đơn yêu cầu, bản tự khai ngày 17/4/2019, người yêu cầu là ông Trần Công T và bà Nguyên Thị Q trình bày:
Ông T và bà Q kết hôn với nhau vào năm 1999 và đã có 02 người con chung (nay đã trưởng thành). Năm 2015, vợ chồng em ruột là Nguyễn Thanh H và chị Tràn Thị Thảo TI có khó khăn về kinh tế, nên đồng ý cháu Nguyễn Minh Khánh Hl, sinh ngày 31/10/2003 là con nuôi của vợ chồng ồng bà, nên ông bà đã làm 1 Án lệ này do GS. TS. Đỗ Văn Đại và ThS. Lê Thị Mận – Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đề xuất. 1 thủ tục nhận nuôi tại ƯBND xã A, huyện B và đuợc cấp giấy chứng nhận nuôi con nuôi số 01 ngày 15/9/2015.
Sau khi nhận con nuôi, ồng bà đã thay đổi họ của cháu từ Nguyễn Minh Khánh HI thành Trần Minh Khánh HI và chăm sóc cháu, nuôi dưỡng cháu tốt. Nhưng nay cháu HI có nguyện vọng được về sống cùng bố mẹ ruột, nên ông bà yêu cẩu chấm dứt việc nuôi con nuôi đôi với cháu Trân Minh Khánh H I.
– Tại bản tự khai ngày 17/4/2019, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Thanh H, chị Trần Thị Thảo TI trình bày:
Anh chị chung sống và đăng ký kết hôn tại UBND xã A (đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn năm 1998). Quá trình chung sống anh chị có 03 người con chung là: Nguyễn Minh c, sinh ngày: 10/01/2000, Nguyễn Minh Khánh Hl, sinh ngày: 31/10/2003, Nguyễn Khánh M, sinh ngày: 08/7/2009. Vào năm 2015, do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn nên anh chị đồng ý để cháu Nguyễn Minh Khánh HI làm con nuôi của chị ruột anh H là bà Nguyễn Thị Q và ông Trần Công T.
Khi được nhận nuôi, cháu HI được đổi họ thành Trần Minh Khánh Hl, đồng thời cháu được nuôi dưỡng và học tập tốt. Nhưng nay cháu HI có nguyện vọng được về sinh sống cùng anh chị nên anh chị đồng ý.
– Tại bản tự khai ngày 17/4/2019, cháu Trần Mình Khánh HI trình bày:
Cháu là con ruột của cha Nguyễn Thanh H và mẹ Trần Thị Thảo TI và đang học lóp 10A1 – Trường THPT N, thị trấn o, huyện B, Đồng Nai.
Năm 2015, do hoàn cảnh gia đình cha mẹ gặp khó khăn và đông con nên cha mẹ cháu đồng ý để bác Trần Cồng T và bác Nguyễn Thị Q nhận cháu làm con nuôi.
Sau khi nhận nuôi, thì cháu về sinh sống tại nhà bác và được đổi họ từ Nguyễn Minh Khánh HI thành Trần Minh Khánh H 1. Khi sống tại nhà bác, cháu sống và học tập tốt và vẫn giữ liên lạc với gia đình. Nhưng do nay cháu đã lớn và về nhà có đông anh chị em nên cháu có nguyện vọng được về sống cùng bố mẹ ruột.
Nay hai bác Trần Công T và Nguyễn Thị Q yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi thì cháu đồng ý.
Ngoài ra, vì bận công việc gia đình và việc học nên ông Trần Công T, bà Nguyễn Thị Q, anh Nguyễn Thanh H và cháu Trần Minh Khánh HI xin vắng tại phiên họp xét.
– Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bom phát biểu quan điểm:
Về trình tự thủ tục từ khi thụ lý việc dân sự, về quan hệ pháp luật, quá trình thu thập chứng cứ, về thời gian, thời hạn tố tụng là đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đơn yêu cầu của ông Trần Công T và bà Nguyễn Thị Q là đúng quy định và có căn cứ nên đề nghị Tòa án chấp nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ việc dân sự được thẩm tra tại phiên họp; ý kiến của đương sự và đại diện Viện kiểm sát tại phiên họp, Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom nhận định: [2] Về tố tụng: Người yêu cầu nộp đơn và thực hiện các thủ tục theo đúng quy định. [3] Ông Trần Công T, bà Nguyễn Thị Q, anh Nguyễn Thanh H và cháu Trần Minh Khánh HI có đơn xin vắng tại phiên họp xét, nên căn cứ theo khoản 2 Điều 367 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án mở phiên họp xét vắng mặt các đương sự nêu trên. [4] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: [5] Ông Trần Công T, bà Nguyễn Thị Q yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi đối với cháu Trần Minh Khánh H I, sinh ngày 31/10/2003, địa chỉ: 113 dãy 8, khu B, ấp L, xã A, huyện B, tỉnh Đồng Nai. Nên căn cứ khoản 5 Điều 29, điểm b khoản 2 Điều 35, điểm 1 khoản 2 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì quan hệ của việc dân sự là: “Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi ” và thuộc thấm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom. [6] Về nội dung: [7] Năm 2015, ông Trần Công T và bà Nguyễn Thị Q nhận nuôi cháu Nguyễn Minh Khánh HI là con đẻ của anh Nguyễn Thanh H và chị Trần Thị Thảo TI làm con nuôi, các bên có làm hồ sơ nhận nuôi con nuôi và được ủy ban nhân dân xã A cấp giấy chứng nhận nuôi con nuôi số 01 ngày 15/9/2015 nên quan hệ nuôi con nuôi là họp pháp và các bên đều thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. [8] Nay cháu HI có nguyện vọng về ở với bố mẹ đẻ để có điều kiện chăm sóc và hỗ trợ các em ăn học, được bố mẹ nuôi là ông T, bà Q và bố mẹ đẻ là anh H, chị TI đồng ý, nên ông T, bà Q làm đơn đề nghị Tòa án chấm dứt việc nuôi con nuôi là tự nguyện và phù họp với quy định tại Điều 78 của Luật Hôn nhân và gia đình và Điều 25 của Luật Nuôi con nuôi. Do đó cần chấp nhận yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi của ông Trần Công T, bà Nguyễn Thị Q với cháu Trần Minh Khánh HI. [9] Về lệ phí: Căn cứ Điều 149 của Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 37 Nghị quyết số 326/2016/ƯBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, ông Trần Công T và bà Nguyễn Thị Q phải nộp lệ phí sơ thẩm giải quyết việc dân sự là 300.000 đồng.Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
– Căn cứ vào Điều 149, khoản 3 Điều 367, Điều 371, Điều 372 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 78 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 25 của Luật Nuôi con nuôi; khoản 1 Điều 37 Nghị quyết số 326/2016/ƯBTVQH14 14 ngày 30 tháng 3 12 năm 2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Chấp nhận đơn yêu cầu giải quyết việc dân sự của ông Trần Công T và bà Nguyễn Thị Q.
Chấm dứt việc nuôi con nuôi giữa ông Trần Công T, bà Nguyễn Thị Q với cháu Trần Minh Khánh H I, sinh ngày 31/10/2003 (theo giấy chứng nhận nuôi con nuôi số 01 ngày 15 tháng 09 năm 2015 của ủy ban nhân dân xã A, huyện B, tỉnh Đồng Nai).
Quyền và nghĩa vụ của cha mẹ nuôi và con nuôi chấm dứt kể từ ngày quyết định chấm dứt việc nuôi con nuôi của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
– Lệ phí sơ thẩm giải quyết việc dân sự: Ông Trần Công T và bà Nguyễn Thị Q phải chịu 300.000 đồng lệ phí sơ thẩm giải quyết việc dân sự, được trừ vào số tiền tạm ứng lệ phí 300.000 đồng, ông bà đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006560 ngày 09/4/2019. Ông T, bà Q đã nộp xong lệ phí.
– Quyền kháng cáo: Chị Trần Thị Thảo TI có quyền kháng cáo quyết định trong hạn 10 ngày, kể từ ngày Tòa án ban hành quyết định; ông Trần Công T, bà Nguyễn Thị Q, anh Nguyễn Thanh H có quyền kháng cáo quyết định trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày được tống đạt họp lệ quyết định.
Xem thêm Án lệ số 60/2023/AL về thời hạn trả thưởng xổ số kiến thiết tại đây
Công ty Luật TNHH QR LAW
Công ty Luật Bắc Giang
Luật sư Bắc Giang
Văn phòng Luật sư
Địa chỉ: 87 Xương Giang, Phường Ngô Quyền, Thành Phố Bắc Giang, Tỉnh Bắc Giang
Pingback: ÁP DỤNG ÁN LỆ SỐ 62/2023/AL1 VỀ THỜI ĐIỂM BẮT ĐẦU THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CẤP DƯỠNG CHO CON CHƯA THÀNH NIÊN TRONG VỤ ÁN TRANH CHẤP VỀ XÁC ĐỊNH CHA CHO CON | Tư Vấn Luật